Có thể điều trị mụn tận gốc được không?

Được đăng bởi Doctor Acnes vào ngày 15/01/2023

Mụn trứng cá là vấn đề da liễu rất thường gặp ở mọi độ tuổi, giới tính và nghề nghiệp. Việc điều trị mụn đôi khi trở nên khó khăn vì đây là tình trạng da liễu mãn tính và rất dễ tái phát. Mong muốn trị mụn tận gốc và có được làn da mịn màng, khỏe mạnh là mong ước của rất nhiều người. Việc này hoàn toàn là có thể nếu bạn hiểu rõ nguyên tắc để điều trị mụn tận gốc qua bài viết sau đây.

Mụn và cơ chế sinh mụn

Mụn là tình trạng viêm mãn tính của các đơn vị tuyến bã nhờn, đặc trưng bởi sự hình thành nhân mụn, các nốt mụn viêm, sưng đỏ và thường để lại sẹo. Mụn ảnh hưởng trên da mặt nhiều hơn những nơi khác, thường gặp ở những người độ tuổi từ 15 đến 24 tuổi.

Định nghĩa về mụn - Doctor Acnes
Mụn là tình trạng viêm mãn tính của các đơn vị tuyến bã nhờn, đặc trưng bởi sự hình thành nhân mụn, các nốt mụn viêm, sưng đỏ và thường để lại sẹo

Có nhiều nguyên nhân gây ra tình trạng mụn trứng cá nhưng cơ chế bệnh sinh của mụn thì chỉ xoay quanh các quá trình sau:

Sự tăng sản xuất bã nhờn

Bã nhờn được sinh ra từ tuyến bã là hỗn hợp các chất béo bao gồm triglyceride, sáp ester, squalene, acid béo tự do, một lượng nhỏ cholesterol, cholesterol este và diglyceride. Bã nhờn đóng vai trò quan trọng giúp duy trì độ ẩm, vận chuyển chất chống oxy hóa đến bề mặt da và bảo vệ da chống lại các vi khuẩn.

Tuy nhiên khi tăng sản xuất, lượng bã nhờn dư thừa sẽ kết hợp với các tế bào chết và vi khuẩn dẫn đến mụn trứng cá, điển hình là mụn đầu trắng và mụn đầu đen.

Nội tiết tố androgen là hormon chính kiểm soát hoạt động của tuyến bã nhờn. Androgen quan trọng nhất là testosteron, được chuyển đổi thành dihyrotestosterone (DHT) nhờ iso-enzyme 5a reductase (loại I), enzym này thường hoạt động mạnh ở những vùng có nhiều tuyến bã nhờn như da mặt, ngực và lưng, do đó mụn thường xuất hiện ở những vùng này hơn.

Tăng sừng hóa ở cổ nang lông

Tăng sừng hóa ở cổ nang lông có thể là do sự bất thường trong quá trình tăng sinh quá mức tế bào sừng và một loại protein mà tế bào sừng tạo ra được gọi là keratin. Sự tăng sinh này làm cho các tế bào kết dính lại với nhau, dẫn đến tình trạng lỗ chân lông bị tắc nghẽn. Khi lỗ chân lông bị tắc nghẽn, dầu thừa bị tích tụ lại, vi khuẩn phát triển và sinh ra mụn trứng cá.

Hoạt động của vi khuẩn gây mụn Propionibacterium acnes

Propionibacterium acnes là chủng vi khuẩn sinh sống ở vùng có nhiều bã nhờn như mặt, đầu, lưng và các vùng khác trên cơ thể. Nang bã nhờn có chứa nhân mụn nhỏ cung cấp môi trường kỵ khí, giàu lipid là điều kiện để vi khuẩn Propionibacterium acnes phát triển mạnh mẽ.

Vi khuẩn Propionibacterium acnes sản sinh lipase ngoại bào thủy phân chất béo trung tính của bã nhờn thành glycerol là chất nền tăng trưởng cho vi khuẩn và các acid béo tiền viêm là đặc tính sinh mụn.

Bên cạnh đó, vi khuẩn Propionibacterium acnes còn giải phóng các yếu tố hóa học thu hút bạch cầu trung tính đến nang bã nhờn và giải phóng cục bộ các enzym thủy phân bạch cầu gây tổn thương và vỡ thành nang.

Sự vỡ nang và mở rộng quá trình viêm vào lớp hạ bì xung quanh dẫn đến sự hình thành các tổn thương viêm của mụn trứng cá thông thường, mụn mủ và nốt sần.

Hoạt động của vi khuẩn gây mụn Propionibacterium acnes - Doctor Acnes
Propionibacterium acnes là chủng vi khuẩn sinh sống ở vùng có nhiều bã nhờn như mặt, đầu, lưng và các vùng khác trên cơ thể

Vì sao mụn khó điều trị tận gốc?

Việc điều trị mụn trứng cá đôi khi trở nên khó khăn vì đây là tình trạng da liễu mãn tính và rất dễ tái phát. Có thể nói, mụn trứng cá thường khó điều trị tận gốc vì hiệu quả phụ thuộc vào nhiều yếu tố như thời gian tối thiểu cần thiết để điều trị triệt để nguyên nhân gây mụn, chọn đúng phương pháp điều trị, duy trì thói quen chăm sóc da phù hợp cũng như tránh xa lối sống căng thẳng và mội trường ô nhiễm.

Cần thời gian để điều trị triệt để nguyên nhân gây mụn

Theo nghiên cứu lâm sàng, các phương pháp điều trị mụn thông thường cần mất 8 – 12 tuần để tác động đủ sâu vào nang lông và thấy được sự cải thiện. Việc điều trị mụn do đó cần sự kiên nhẫn và tuân thủ phác đồ điều trị của Bác sĩ Da liễu.

Việc liên tục thay đổi các phương pháp điều trị mụn có thể khiến da không kịp đáp ứng, đôi khi còn làm da trở nên nhạy cảm và dễ bị kích ứng hơn.

Chọn đúng phương pháp điều trị

Mặc dù cơ chế chung gây mụn khá giống nhau, tuy nhiên tùy thuộc vào nguyên nhân hình thành, cách chăm sóc da của mỗi người và tình trạng mụn ở thời điểm điều trị đang ở giai đoạn nào mà sẽ có các phương pháp điều trị phù hợp.

Việc điều trị mụn là một quá trình cá thể hóa và cần sự nhận định chính xác tình trạng da để có phác đồ phù hợp, điều này đòi hỏi chuyên môn sâu và kinh nghiệm của Bác sĩ điều trị.

Điển hình của việc lựa chọn sai phương pháp thường là tự điều trị bằng rượu thuốc, kem trộn với mong muốn trị mụn hiệu quả tận gốc, nhanh chóng và rẻ tiền.

Việc sử dụng rượu thuốc có thành phần cồn cao độ khiến da mất nước, bong tróc và bào mòn da vì thế không thể sử dụng kéo dài cho đến khi hết mụn. Quan trọng là việc điều trị bằng rượu thuốc không thể tác động triệt để vào nguyên nhân gây mụn, trong khi đó các thành phần có trong rượu thuốc đôi lúc có thể gây dị ứng cho da.

Mặt khác, các loại kem trộn không rõ nguồn gốc trên thị trường thường có chứa corticoid. Nhờ thành phần corticoid với đặc tính kháng viêm, các loại kem trộn này mang lại hiệu quả giảm viêm nhanh chóng và làm da mỏng mịn sau thời gian ngắn sử dụng nên nhiều người tin dùng.

Tuy nhiên, sử dụng càng lâu dài thì cấu trúc da sẽ bị phá hủy nghiêm trọng không thể phục hồi. Ngược lại với hiệu quả điều trị lúc ban đầu, corticoid bôi ngoài da làm thoái hóa biểu mô nang lông và tăng nồng độ acid béo tự do trên bề mặt da là điều kiện cho vi khuẩn P. acnes sinh sôi mạnh mẽ gây nên tình trạng bùng phát mụn viêm.

Trong giai đoạn đầu da bị nhiễm corticoid sẽ có mụn sẩn và mụn mủ, sau đó sẽ là tình trạng mụn viêm nạng như mụn nang, mụn bọc.

Kem trộn - Doctor Acnes
Các loại kem trộn không rõ nguồn gốc trên thị trường thường có chứa corticoid

Một số nguyên nhân ít gặp sinh mụn là do tác dụng phụ của thuốc, đặc biệt khi dùng thuốc có các thành phần tương tự testosterone như lithium, corticosteroid, thuốc chống lao, thuốc chống động kinh, thuốc chống trầm cảm… trong thời gian dài khiến người bệnh bị rối loạn nội tiết tố, tăng tiết bã nhờn và gây mụn.

Duy trì thói quen chăm sóc da phù hợp

Da mụn hoặc da sau điều trị mụn thành công cần có một chế độ chăm sóc đặc biệt để duy trì hiệu quả tránh mụn quay trở lại. Việc chăm sóc sai cách khiến da bị dày sừng, tăng tiết bã nhờn tạo điều kiện cho vi khuẩn gây mụn phát triển mạnh. Đặc biệt, cần tránh xa một số thói quen chăm sóc da khiến mụn dễ quay trở lại như:

Không có thói quen tẩy tế bào chết

Tình trạng da dày sừng khiến cho mụn dễ dàng quay trở lại. Để duy trì làn da sạch mụn, nên tẩy tế bào chết định kỳ để tránh việc tế bào chết gây tắc nghẽn lỗ chân lông. Tuy nhiên việc sử dụng tẩy tế bào chết cần hợp lý, tránh các hoạt động chà xát mạnh lên da có thể gây kích ứng và viêm.

Không có thói quen giữ ẩm cho da

Nhiều người thường hiểu lầm về việc giữ ẩm cho da sẽ sinh ra mụn. Ngược lại việc giữ ẩm cho da kém có thể gây tăng tiết bã nhờn, dẫn đến nổi mụn nhiều hơn.

Chế độ ăn uống không phù hợp

Việc chăm sóc da chưa đúng còn thể hiện ở chế độ ăn uống không phù hợp, cụ thể là sử dụng các nhóm thực phẩm gây tăng tiết insulin có nguy cơ làm nặng thêm tình trạng mụn trứng cá.

Sữa động vật và các sản phẩm từ sữa: nghiên cứu cho thấy các acid amin có nguồn gốc từ sữa làm tăng bài tiết insulin và tạo ra hormon IGF-1 ở gan. IGF-1 được cho là tác nhân chính gây ra mụn trứng cá bằng cách kích thích tăng trưởng biểu mô nang lông và sừng hóa.

Thêm vào đó, tính đa hình của IGF-1 đã được chứng minh là làm tăng tính nhạy cảm với mụn trứng cá và nồng độ IGF-1 trong huyết tương tương quan với mức độ nghiêm trọng của mụn trứng cá.

Thức ăn ngọt: các nhóm thức ăn có chỉ số đường GI (glycemic index) cao sẽ dễ có nguy cơ làm nặng thêm tình trạng mụn trứng cá.

Sau khi ăn, đường sẽ hấp thu nhanh vào máu gây giải phóng insulin, kích thích cơ thể sản xuất ra một loại chất nhờn tự nhiên trên da, đồng thời thúc đẩy cơ thế tăng sản xuất nội tiết tố androgen, kích thích các tuyến bã nhờn và gây mụn trứng cá. Thực phẩm có chỉ số đường huyết cao như là bánh ngọt, nước ngọt, đồ ăn có nhiều tinh bột.

Thức ăn ngọt - Doctor Acnes
Các nhóm thức ăn có chỉ số đường GI (glycemic index) cao sẽ dễ có nguy cơ làm nặng thêm tình trạng mụn trứng cá

Tránh xa tình trạng tinh thần căng thẳng

Việc bản thân thường xuyên rơi vào tình trạng căng thẳng cũng là nguyên nhân sinh ra mụn. Căng thẳng làm tăng tiết nội tiết tố androgen tuyến thượng thận dẫn đến tăng sản xuất bã nhờn. Bởi vì khi căng thẳng, hormone giải phóng corticotropin (CRH) gia tăng, kích thích sản xuất lipid ở tuyến bã nhỡn và tạo steroid, góp phần gây mụn trứng cá.

CRH cũng tăng sản xuất cytokine IL6 và IL11 trong tế bào sừng, gây nên tình trạng viêm, cũng là một trong cơ chế bệnh sinh của mụn trứng cá. Bên cạnh đó, các dây thần kinh ngoại vi giải phóng chất neuropeptid P để đáp ứng với căng thẳng. Chất P sẽ kích thích sự tăng sinh và biệt hóa của tuyến bã nhờn, tăng tổng hợp lipid trong tế bào tuyến bã nhờn.

Tránh xa ô nhiễm môi trường

Làm việc trong môi trường có nguồn nước hoặc không khí ô nhiễm, bụi bẩn, bụi mịn… lâu dài cũng là nguyên nhân khiến da dễ nhiễm khuẩn, bít tắt lỗ chân lông, tích tụ chất bã nhờn dẫn đến mụn trứng cá.

Thế nào là điều trị mụn đúng cách

Phân loại tình trạng mụn - Doctor Acnes
Phân loại tình trạng mụn

Tùy theo tình trạng da lúc bắt đầu điều trị mà Bác sĩ Da liễu sẽ lựa chọn phương pháp điều trị mụn phù hợp. Mức độ mụn trên lâm sàng thường được phân loại như sau:

Mụn trứng cá nhẹ 

  • Dưới 20 mụn đầu trắng hoặc mụn đầu đen.
  • Dưới 15 mụn viêm đỏ.
  • Dưới 30 tổng số tổn thương (mụn nhọt), không phải tất cả đều viêm đỏ.

Mụn trứng cá vừa phải 

  • Từ 20 đến 100 mụn đầu trắng hoặc mụn đầu đen.
  • Từ 15 đến 50 mụn viêm đỏ.
  • Từ 30 đến 125 tổng số tổn thương (mụn nhọt), không phải tất cả đều viêm đỏ.

Mụn trứng cá nặng 

  • Nhiều hơn 5 mụn nang.
  • Tổng số mụn đầu trắng hoặc mụn đầu đen lơn hơn 100.
  • Trên 50 mụn viêm đỏ.
  • Trên 125 tổng số tổn thương (mụn nhọt), không phải tất cả đều viêm đỏ.

Điều trị mụn trứng cá tận gốc phụ thuộc mức độ nghiêm độ nghiêm trọng của mụn trứng cá.

Điều trị mụn trứng cá nhẹ và trung bình

Điều trị mụn trứng cá nhẹ bao gồm các chế phẩm trị mụn bôi thoa như retinoid, benzoyl peroxide, salicylic acid, azelaic acid và kháng sinh. Bác sĩ Da liễu có thể phối hợp các hoạt chất phù hợp và hướng dẫn cách sử dụng.

Retinoid

Retinoid bao gồm vitamin A và các dẫn xuất của vitamin A. Các retinoid bôi thường được sử dụng phổ biến trong trị mụn là retinol, tretinoin, adapalene. Trong điều trị mụn, về mặt cơ chế, retinoid giúp điều chỉnh tình trạng tăng tiết bã nhờn là cơ chế bệnh sinh quan trọng gây nên mụn.

Ngoài ra, retinoid còn làm bong lớp sừng, tạo điều kiện để thuốc khác thấm sâu vào da. Retinoid cũng có hiệu quả làm giảm sẹo mụn nhờ cơ chế kích thích sản sinh collagen.

Retinoid - Doctor Acnes
Retinoid bao gồm vitamin A và các dẫn xuất của vitamin A

Benzoyl peroxide

Benzoyl peroxide thường được sử dụng để điều trị kết hợp với thuốc kháng sinh tại chỗ, là một chất diệt khuẩn tiêu diệt P. acnes và có các hoạt động kháng viêm và tiêu mụn nhẹ.

Do đặc tính ưa béo, benzoyl peroxide tích tụ bên trong đơn vị lông mao, tạo ra acid benzoic và các oxy tự do, làm oxy hóa protein của vi khuẩn. Điều này dẫn đến sự ức chế tổng hợp protein và nucleotide, các con đường trao đổi chất và hoạt động ty thể của P. acnes.

Acid salicylic 

Acid salicylic hoạt động bằng cách thâm nhập vào nang lông và tuyến bã nhờn, đồng thời làm tan các tế bào chết, dầu thừa và các mảnh vụn khác gây ra mụn.

Acid salicylic có tác dụng làm giảm lượng dầu do các tuyến bã nhờn sản xuất ra, giúp giảm thiểu khả năng hình thành hoặc phát triển lớn hơn các tắc nghẽn gây mụn mới. Ngoài ra, acid salicylic  cũng có đặc tính chống viêm, giúp giảm sưng và tấy đỏ do mụn trứng cá.

Acid azelaic

Acid azelaic là dicarboxylic acid tự nhiên, có đặc tính kháng khuẩn và chống sừng hóa tương tự benzoyl peroxide hoặc tretinoin. Acid azelaic cũng giúp làm sáng da và hỗ trợ điều trị rối loạn sắc tố sau viêm do mụn trứng cá.

Kháng sinh bôi ngoài da

Kháng sinh bôi được dùng trong trị mụn trứng cá thông qua cơ chế ức chế hoạt động của vi khuẩn P. acnes, tác dụng chống viêm và làm tan nhân mụn. Kháng sinh ức chế sự tổng hợp lipase, enzym được vi khuẩn P. acnes sử dụng để thủy phân triglycerid thành các acid béo tự do tiền viêm và glycerol, là chất nền quan trọng cho sự phát triển của vi khuẩn.

Đặc tính chống viêm của kháng sinh có liên quan đến việc ức chế các con đường bổ thể và suy giảm khả năng điều hòa của bạch cầu trung tính. Kháng sinh tại chỗ được sử dụng phổ biến nhất để điều trị mụn trứng cá là erythromycin – một loại kháng sinh lincosamide và clindamycin – một dẫn xuất của lincosamid.

Điều trị mụn trứng cá nặng

Isotretinoin

Isotretinoin thuộc nhóm retinoid đường uống, là phương pháp điều trị hiệu quả nhất đối với mụn trứng cá nặng cũng như nhiều trường hợp nhẹ hơn không đáp ứng với các phương thức điều trị khác.

Cơ chế của isotretinoin trong trị mụn trứng cá cũng tương tự các loại retinoid khác là làm giảm đáng kể sản xuất bã nhờn, ảnh hưởng đến sự hình thành mụn, làm giảm hoạt động của vi khuẩn P. acnes và có đặc tính chống viêm.

Thuốc Acnotin 10mg
Isotretinoin thuộc nhóm retinoid đường uống, là phương pháp điều trị hiệu quả nhất đối với mụn trứng cá nặng cũng như nhiều trường hợp nhẹ hơn không đáp ứng với các phương thức điều trị khác

Kháng sinh uống

Kháng sinh đường uống được sử dụng phổ biến như tetracyclin (tetracyclin, doxycyclin, minocyclin), các macrolid (erythromycin và azithromycin) và một sulfonamid phối hợp (trimethoprim/sulfamethoxazole).

Cơ chế của kháng sinh uống cũng tương tự với kháng sinh bôi ngoài da qua tác dụng kháng khuẩn chống lại sự gia tăng của vi khuẩn P. acnes trong nang bã nhờn gây nên tình trạng mụn viêm, trong đó kháng sinh nhóm tetracyclin thường được sử dụng hơn do đặc tính kháng viêm mạnh.

Liệu pháp nội tiết tố

Liệu pháp nội tiết được khuyến nghị bởi các hướng dẫn trước đây như một giải pháp thay thế cho kháng sinh toàn thân và/hoặc isotretinoin để điều trị mụn trứng cá từ trung bình đến nặng ở những người phụ nữ.

Các liệu pháp nội tiết tố thường được sử dụng phổ biến gồm thuốc tránh thai kết hợp (COC) và spironolactone. Cả hai tác nhân đều ức chế sự liên kết của testosterone với các thụ thể androgen và chuyển đổi testosterone thành dihydrotestosterone; chúng cũng làm tăng globulin liên kết hormone sinh dục, làm giảm testosterone tự do trong máu.

Ngoài sử dụng thuốc bôi và thuốc uống, việc điều trị mụn ngày nay hiện đại hơn rất nhiều cho phép điều trị mụn triệt để, nhanh chóng và không gặp tác dụng phụ do uống thuốc.

Những phương pháp sử dụng các công nghệ mới như laser, ánh sáng xung mạnh IPL và các phương pháp hóa lý giúp điều trị mụn hiệu quả và an toàn. Tuy nhiên, đây là những phương pháp điều trị công nghệ cao đòi hỏi chuyên môn từ Bác sĩ Da liễu.

Ca lâm sàng khách tuổi dậy thì điều trị mụn sớm thành công - Doctor Acnes
Khách hàng D.T điều trị mụn thành công tại Phòng khám Doctor Acnes

Tóm lại, trị mụn tận gốc tuy khó nhưng vẫn có thể đạt được nếu lựa chọn đúng phương pháp điều trị cũng như kiên trì để thấy được hiệu quả.

Ngày nay, các phương pháp điều trị mụn đã tiến bộ rất nhiều, bên cạnh các loại thuốc thoa thuốc uống thì có rất nhiều phương pháp sử dụng công nghệ hiện đại như laser, ánh sáng xung mạnh IPL và các phương pháp hóa lý để bạn có thể lựa chọn.

Tuy nhiên, cho dù dùng phương pháp nào thì cũng cần điều trị mụn với Bác sĩ Da liễu để được tư vấn và lựa chọn phác đồ điều trị phù hợp nhất. Cuối cùng, đừng quên thăm khám với Bác sĩ để được tư vấn một kế hoạch chăm sóc lâu dài tránh mụn quay lại nhé.

banner gruop facebook

Tài liệu tham khảo

  1. Hazel H Oon, Su-Ni Wong, Derrick Chen Wee Aw. “Acne Management Guidelines by the Dermatological Society of Singapore”. J Clin Aesthet Dermatol. 2019 Jul;12(7):34-50
  2. Apostolos Pappas 1, Stefanie Johnsen, Jue-Chen Liu, Magdalena Eisinger. “Sebum analysis of individuals with and without acne”. Dermato-endocrinology. 2009;1(3):157-61
  3. MedicalNewsToday. “What is sebum?”. MedicalNewsToday
  4. Jappe U. “Pathological mechanisms of acne with special emphasis on Propionibacterium acnes and related therapy”. Acta dermato-venereologica. 2003;83(4):241-8
  5. Lizelle Fox, Candice Csongradi, Marique Aucamp, Jeanetta du Plessis. “Treatment Modalities for Acne”. Molecules (Basel, Switzerland). 2016;21(8)
  6. “10 SKIN CARE HABITS THAT CAN WORSEN ACNE”. American Academy of Dermatology
  7. Juhl CR, Bergholdt HKM, Miller IM. “Dairy Intake and Acne Vulgaris: A Systematic Review and Meta-Analysis of 78,529 Children, Adolescents, and Young Adults”. Nutrients. 2018;10(8)
  8. Gold MH, Andriessen A, Biron J. “Self-diagnosis of Mild-to-Moderate Acne for Self Treatment with Blue Light Therapy”. The Journal of clinical and aesthetic dermatology. 2009;2(4):40-4
  9. Lazic Mosler E, Leitner C, Gouda MA, et al. “Topical antibiotics for acne”. Cochrane Database Syst Rev. 2018 Jan 23;2018(1):CD012263
  10. Marson JW, Baldwin HE. “An Overview of Acne Therapy, Part 1: Topical therapy, Oral Antibiotics, Laser and Light Therapy, and Dietary Interventions”. Dermatologic clinics. 2019;37(2):183-193
  11. Layton A. “The use of isotretinoin in acne”. Dermato-endocrinology. 2009;1(3):162-9
  12. Leyden JJ, Del Rosso JQ. “Oral antibiotic therapy for acne vulgaris: pharmacokinetic and pharmacodynamic perspectives”. The Journal of clinical and aesthetic dermatology. 2011;4(2):40-7
  13. Marson JW, Baldwin HE. “An Overview of Acne Therapy, Part 2: Hormonal Therapy and Isotretinoin”. Dermatologic clinics. 2019;37(2):195-203
Share DMCA.com Protection Status

PHẢN HỒI

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

+84